5 TỈNH CÓ DIỆN TÍCH NUÔI TÔM LỚN NHẤT
(Thủy sản Việt Nam) - Từ đầu năm đến nay, nhiều địa phương đã tiến hành thả nuôi tôm theo khung lịch thời vụ của ngành nông nghiệp. Dẫn đầu diện tích thả nuôi vẫn là các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long.
Bạc Liêu
Là tỉnh có diện tích thả nuôi nhiều nhất, tính đến đầu tháng 3/2015, Bạc Liêu đã thả nuôi được 185.639 ha tôm. Trong đó, diện tích nuôi tôm sú hơn 100.000 ha, còn lại là diện tích tôm thẻ chân trắng (TTCT). Năm 2014, nhiều địa phương trong tỉnh đã thả nuôi vượt quy hoạch. Đặc biệt, TTCT đã xâm nhập vùng nuôi tôm truyền thống, quảng canh, quảng canh cải tiến. Người nuôi tôm lén lút thả nuôi, không khai báo với cơ quan quản lý. Năm nay, Bạc Liêu sẽ mạnh tay giải tỏa tình trạng này, đồng thời triển khai mô hình nuôi TTCT siêu thâm canh, mở ra nhiều hướng đi mới với nghề nuôi tôm bền vững…
Kiên Giang
Từ đầu năm đến nay, Kiên Giang đã thả nuôi được trên 109.000 ha (tôm sú trên 108.000 ha, TTCT trên 840 ha). Thời tiết tương đối ổn định, hiện chưa có dịch bệnh lớn xảy ra trên tôm nuôi. Một số nơi người nuôi thả sớm đã bắt đầu thu hoạch, giá tôm đang khá cao.
Ảnh: Thanh Ngân
Bến Tre
Với 42.803 ha thả nuôi tôm từ đầu năm đến nay, Bến Tre đứng thứ ba về diện tích thả nuôi tôm (tôm sú hơn 40.000 ha, TTCT hơn 2.000 ha). Theo kế hoạch năm 2015, nuôi tôm biển thâm canh, bán thâm canh 6.500 ha (TTCT 4.500 ha, tôm sú 2.000 ha). Tổng sản lượng tôm biển 56.000 tấn; kiểm dịch giống tôm biển 4.900 triệu con. Để đạt kế hoạch, ngành nông nghiệp đang tập trung tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho người dân; nắm vững và thực hiện tốt các quy định của pháp luật, áp dụng tốt các tiêu chuẩn, quy chuẩn của Bộ NN&PTNT.
Trà Vinh
Đến nay, toàn tỉnh đã thả nuôi 24.396 ha tôm (tôm sú hơn 20.000 ha, TTCT hơn 1.700 ha). Hiện, có hơn 11.000 hộ thả nuôi khoảng 1,2 tỷ con tôm giống trên diện tích khoảng 13.000 ha, chủ yếu ở hai huyện Duyên Hải, Cầu Ngang. Ngay từ đầu vụ, công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật, tập huấn kỹ thuật, quan trắc, cảnh báo môi trường, lịch thả giống ở từng khu vực đã sớm được ban hành. Chi cục Nuôi trồng Thủy sản Trà Vinh đã dự phòng 30 tấn Chlorine từ nguồn dự trữ quốc gia để kịp thời xử lý khi dịch bệnh xảy ra.
Bà Rịa - Vũng Tàu
Theo khung lịch mùa vụ 2015, Bà Rịa - Vũng Tàu thả 2 vụ/năm. Vụ một thả giống từ tháng 2 đến tháng 3, vụ hai thả giống từ tháng 7 đến tháng 8. Vụ một, toàn tỉnh đã thả nuôi 6.406 ha (tôm sú hơn 6.000 ha, TTCT 4 ha). Việc tuyên truyền, phổ biến khung lịch mùa vụ và quy trình được thực hiện ngay từ đầu năm, giúp người nuôi chủ động trong mọi hoạt động.
Tin: Thảo Dương
VIỆT - ÚC (BẠC LIÊU): THẢ TÔM GIỐNG THEO MÔ HÌNH SIÊU THÂM CANH TRONG NHÀ KÍNH
(Thủy sản Việt Nam) - Ngày 25/3, tại ấp Vĩnh Lạc, xã Vĩnh Thịnh, huyện Hòa Bình, tỉnh Bạc Liêu, Công ty CP Thủy sản Việt - Úc (Bạc Liêu) thuộc Tập đoàn Việt - Úc tổ chức lễ thả tôm giống theo Chương trình nuôi tôm siêu thâm canh trong nhà kính. Đến dự có ông Võ Văn Dũng, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh Bạc Liêu; ông Nguyễn Huy Điền, Phó Tổng cục Trưởng Tổng Cục Thủy sản; cùng lãnh đạo một số tỉnh ven biển trong cả nước (ảnh).
Từ việc thành công trong lĩnh vực sản xuất và cung ứng tôm giống, Tập đoàn Việt - Úc tiếp tục hướng đến xây dựng chuỗi giá trị ngành tôm theo mô hình khép kín, công nghệ cao với dự án nuôi tôm siêu thâm canh trong nhà kính tại Bạc Liêu. Trong đó, đầu tư và ứng dụng các công nghệ vượt trội vào tất cả các phân khúc của chuỗi giá trị từ chương trình tôm bố mẹ, đến con giống, thức ăn, nuôi và chế biến xuất khẩu. Sau thời gian nghiên cứu thử nghiệm thành công, Công ty đã chính thức triển khai Chương trình nuôi tôm siêu thâm canh trong nhà kính tại ấp Vĩnh Lạc, xã Vĩnh Thịnh, huyện Hòa Bình với tổng diện tích 50 ha, gồm 414 ao nuôi, diện tích 500 m2/ao, mật độ thả 200 - 500 con/m2. Áp dụng nhiều công nghệ vượt trội như: công nghệ nhà màng của Isarel, hệ thống lọc nước của Mỹ, con giống và thức ăn theo những công nghệ vượt trội của Tập đoàn Việt - Úc … Chương trình gồm 2 giai đoạn với tổng vốn đầu tư 180 tỷ đồng; trong giai đoạn 1, Công ty thả nuôi trong 5 khu nhà kính, tổng số 90 ao.
Phát biểu tại buổi Lễ, ông Lương Thanh Văn, Chủ tịch Hội đồng Quản trị, kiêm Tổng Giám đốc Tập đoàn Việt - Úc cho biết, Chương trình nuôi tôm siêu thâm canh nhà kính góp phần quan trọng trong việc thực hiện khát vọng “Nâng tầm tôm Việt” của Tập đoàn. Trong đó, thông qua Chương trình sẽ cung cấp sản lượng tôm ổn định cho ngành tôm Việt Nam; Đồng thời, giá trị con tôm được nâng lên do truy xuất được nguồn gốc, hạn chế tối đa việc ô nhiễm môi trường xung quanh (đây cũng là một trong các yếu tố làm gia tăng giá trị của con tôm đối với các thị trường khó tính). Ngoài ra, Chương trình cũng mở ra cơ hội chuyển giao đến người nuôi với quy mô nhỏ hơn, góp phần phát triển ngành tôm tỉnh Bạc Liêu nói riêng và ngành tôm Việt Nam nói chung.
Ông Lương Thanh Văn, Chủ tịch Hội đồng Quản trị, kiêm Tổng Giám đốc Tập đoàn Việt - Úc phát biểu tại buổi lễ.
Chủ tịch UBND tỉnh Bạc Liêu Lê Minh Khái nhận định, dự kiến, trong quý II/2015 Công ty CP Thủy sản Việt - Úc (Bạc Liêu) phối hợp với 5 hộ dân trong tỉnh triển khai 5 điểm nuôi trình diễn và chuyển giao công nghệ cho người dân để nhân rộng. Thời gian qua, Tập đoàn Việt - Úc và Công ty CP Thủy sản Việt - Úc (Bạc Liêu) đã khẳng định được vị thế và hiệu quả sản xuất kinh doanh. Hy vọng, trong thời gian tới, đơn vị tiếp tục phát huy hơn nữa các lợi thế tiềm năng vùng ven biển kết hợp quy hoạch đầu tư phát triển du lịch sinh thái, nuôi trồng thủy sản; nhằm tạo nhiều công ăn việc làm, góp phần ổn định đời sống nhân dân vùng ven biển và đưa Bạc Liêu ngày càng phát triển hơn nữa.
Một số hình ảnh tại buổi lễ:
>> Với vị thế dẫn đầu ngành tôm giống, năm 2014 Tập Đoàn Việt - Úc đã cung cấp hơn 15 tỷ con giống tôm thẻ chân trắng, chiếm 22% thị phần cả nước. Riêng, Công ty CP Thủy sản Việt - Úc (Bạc Liêu) từ đầu năm đến nay đã sản xuất hơn 4,2 tỷ con giống.
Tin, ảnh: Phan Thanh Cường
Cuộc chuyển dịch âm thầm
(Thủy sản Việt Nam) - Nhiều người đã sớm nhận ra cuộc cạnh tranh quyết liệt trong lĩnh vực nuôi tôm, trong đó không chỉ các doanh nghiệp nhỏ mà cả những nông trại làm ăn kém hiệu quả đang mất dần chỗ đứng. Tình trạng khan hiếm tôm nguyên liệu xảy ra không chỉ do dịch bệnh.
Bấp bênh nghề tôm
Trong một cuộc làm việc với Hội Nghề cá một tỉnh miền Trung, chúng tôi được biết phần lớn diện tích nuôi tôm ở nơi đây đã được khai thác, mặc dù năng suất chưa được như ý, nhưng hầu như đất đều có chủ. Song một quá trình dịch chuyển chủ sở hữu đang diễn ra khá mạnh mẽ. "Các công ty bán thức ăn, giống, thu mua nguyên liệu đang vận động thu gom diện tích để tự nuôi tôm" - người cán bộ này nói.
Một chủ đầm tôm đang làm ăn khá phát đạt nói với chúng tôi: "Năm nay, hoặc sang năm chúng tôi sẽ giải nghệ". Thật là câu chuyện bất ngờ vì gia đình này được xem như có kinh nghiệm nhất trong vùng và là một gương điển hình của ngành tôm địa phương. Chủ đầm tôm bảo: "Chúng tôi vẫn làm ăn có lãi, thậm chí năm 2014 chúng tôi lãi 5 tỷ đồng, cao gấp đôi năm 2013, nhưng thú thật là làm ngành tôm khá bấp bênh, không biết giá cả còn tốt như thế này được bao lâu".
Một người nuôi tôm lâu năm thì tâm sự: "Nuôi tôm đòi hỏi phải bám sát ruộng đồng, có kinh nghiệm, biết xử lý tình huống nhanh, do thời tiết, môi trường thay đổi nhiều. Song, chúng tôi đều già cả rồi, sau gần hai chục năm theo ngành tôm, mà con cái thì không đứa nào theo nghề tôm, nên nghỉ thì buộc phải bán lại". Hỏi vì sao không cho con cái theo nghề, họ bảo: "Nghề này vất vả quá, thu nhập lại không ổn định. Đứa nào càng giỏi, càng học hành tốt, du học nước này nước nọ, lại càng không chịu về dãi nắng dầm mưa".
Các công ty săn ruộng
Một số chuyên gia cho biết hầu hết các doanh nghiệp lớn trong nước và nước ngoài tham gia ngành tôm đều đang có những toan tính về việc thu gom đất đai để mở mang sản xuất. Nếu như trước kia việc nuôi trồng đối với các công ty giống và thức ăn chỉ mang tính trình diễn, thì nay chúng được đặt ra rất nghiêm túc, với những chỉ tiêu và sản lượng cụ thể. Vậy đâu là nguyên nhân của hiện tượng này?
Một nhà sản xuất nước ngoài cho biết năng suất nuôi tôm ở Việt Nam còn khá thấp, do tập quán còn lạc hậu, vốn đầu tư ít, khoa học kỹ thuật chưa hoàn thiện. Các công ty giống, công ty thức ăn và thuốc thì đều có tiềm lực cả, bởi vậy họ tin rằng nếu trực tiếp nuôi trồng thì không chỉ tiêu thụ được sản phẩm của mình làm ra như giống, thức ăn, mà khả năng thành công không nhỏ, do áp dụng được khoa học kỹ thuật.
Mặc dù cho hiệu quả cao, song không ít người đã từ bỏ nghề nuôi tôm - Ảnh: Thanh Nhã
Các doanh nghiệp lớn muốn tham gia vào vùng nguyên liệu dưới hai hình thức là đầu tư trực tiếp thông qua việc thu gom đất đai, hoặc đầu tư đầu vào đồng thời thu mua sản phẩm. "Dịch bệnh hoành hành, khiến các công ty thiệt hại rất nặng và việc phụ thuộc quá nhiều vào nguồn tôm nguyên liệu từ các trang trại và các công ty nhỏ là khá phiêu lưu", chia sẽ của một lãnh đạo doanh nghiệp.
Không thể phủ nhận việc tôm nguyên liệu tăng giá và sốt về sản lượng, cầu cao hơn cung đã khiến nhiều công ty muốn tham gia vào việc cung ứng tôm nguyên liệu. Năm 2014, nhiều doanh nghiệp liên doanh và có vốn nước ngoài đã trực tiếp nuôi tôm ở quy mô đáng kể. Từ vài chục đến hàng trăm ha. Cách thức cơ bản của các công ty này là mua lại các ruộng tôm đang ăn nên làm ra của nông dân và các trang trại nhỏ, sử dụng lại hệ thống cơ sở vật chất hiện có, chỉ nâng cấp một phần, rồi tham gia sản xuất ngay.
Đâu là tương lai của người nông dân
Một chủ đầm tôm ở Thừa Thiên - Huế cho biết công ty nọ đã về thu gom được một số diện tích đáng kể để mở rộng vùng nuôi vệ tinh cho công ty. "Giá cả đền bù của họ không phải hấp dẫn lắm, nhưng cũng đủ để những ai chán nghề nuôi tôm sang nhượng lại ruộng". Giá cả được tính theo giá thị trường, việc khấu hao cũng như đầu tư ban đầu không được tính. Song trong tình hình kinh tế khó khăn, không dễ gì tìm được người sẵn sàng mua dăm bảy ha ruộng tôm với giá tiền tỷ.
Nhưng một khi những trang trại nuôi tôm lâu năm "tháo chạy" khỏi ngành tôm thì hệ lụy của chúng thật khó lường. Bởi ngành tôm không chỉ tạo ra những đồng lợi nhuận, những đồng đô la mà còn phải là nơi tạo ra công ăn việc làm cho nhiều người dân địa phương. Thực tế là nuôi tôm công nghiệp với kỹ thuật cao ngày càng ít sử dụng lao động địa phương, hoặc chỉ sử dụng nhân công giá rẻ. Những người nông dân sẽ làm gì và con cái của họ sẽ ra sao một khi họ bán hết ruộng tôm cho các công ty? Chắc chắn nhân lực của ngành tôm sẽ ảnh hưởng đáng kể. Những kỹ sư, những công nhân bậc cao được đào tạo tại chỗ không nhiều.
Chúng tôi chợt nhớ đến những lời tâm huyết của giáo sư Võ Tòng Xuân về cánh đồng mẫu lớn đang được triển khai trong nông nghiệp. Ông muốn rằng người nông dân vẫn giữ được ruộng, họ không bị đẩy bay ra khỏi làng quê, bằng cách họ sẽ tham gia vào các cánh đồng mẫu lớn bằng cách góp vốn (bằng ruộng) vào các công ty. Đây cũng là mô hình được nhiều nước tiên tiến sử dụng. Liệu những cánh đồng mẫu lớn trong ngành tôm sẽ đem đến hiệu quả như thế nào? Người nông dân có thể tham gia vào quá trình nuôi tôm công nghiệp hay không, hay là họ vì thiếu vốn và thiếu khoa học kỹ thuật đành bán lại ruộng đồng cho các doanh nghiệp lớn?
Phần lớn người nuôi đều cảm thấy tiếc khi phải chia tay với nghề nuôi tôm thân thương của họ. Nhưng mối đe dọa về dịch bệnh cũng như giá cả phập phù khiến họ đang phải lựa chọn nên tiếp tục theo nghề tôm hay từ giã nó trước khi quá muộn màng.
>> Cuộc dịch chuyển lớn về chủ sở hữu các đầm tôm, các vùng tôm truyền thống đang âm thầm diễn ra. Nhiều người nuôi đang cân nhắc việc tiếp tục theo nghề hay nhượng lại ruộng cho các công ty lớn.
Tin: Trần Nguyễn
TRIỂN KHAI NGHỊ ĐỊNH 67: "CẦN SỚM THÁO GỠ KHÓ KHĂN CHO NGƯ DÂN"
(Thủy sản Việt Nam) - Trên đây là chia sẻ thẳng thắn của ông Hoàng Đình Yên (ảnh) - Phó Tổng thư ký Hội Nghề cá Việt Nam với Thủy sản Việt Nam khi trao đổi về tình hình triển khai thực hiện Nghị định 67/2014/NĐ-CP (Nghị định 67).
Thưa ông, triển khai Nghị định 67, Hội Nghề cá Việt Nam được giao những nhiệm vụ gì?
Hội Nghề cá Việt Nam được giao nhiệm vụ tuyên truyền hướng dẫn cho hội viên thực hiện nội dung Nghị định 67, tổ chức cho các cấp hội địa phương phối hợp với cơ quan chức năng của Nhà nước và các cơ quan chức năng địa phương cùng triển khai thực hiện. Với chức năng và nhiệm vụ của mình, Hội đứng ra tổ chức, vận động hội viên và các ngư dân, tuyên truyền hướng những đối tượng liên quan nắm được chủ trương, chính sách, nhằm thực hiện đúng mục tiêu, đối tượng, nội dung Nghị định.
Triển khai Nghị định 67 tại các địa phương, ngư dân ta gặp những khó khăn gì, thưa ông?
Nghị định 67 là chủ trương lớn, đúng đắn và kịp thời, phù hợp với nguyện vọng của ngư dân và cấp chính quyền địa phương. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai, chính sách từ Trung ương đến địa phương còn chậm đi vào cuộc sống. Theo phản ánh của ngư dân, thời gian đầu, các ngành chức năng còn gặp khó khăn, trước hết là trình tự thủ tục đăng ký, thẩm định xét duyệt cho các dự án đóng tàu khai thác và dịch vụ khai thác xa bờ. Nghị định yêu cầu chủ phương tiện hoạt động có khả năng tài chính, hoạt động hiệu quả; tuy nhiên, các tiêu chí cụ thể, khái niệm có khả năng tài chính, hoạt động hiệu quả, điều kiện cụ thể để việc phê duyệt xét duyệt được chính xác, đúng đối tượng vẫn chưa được làm rõ. Bộ NN&PTNT đã ban hành 21 mẫu tàu vỏ sắt trong lúc phần lớn ngư dân muốn đóng tàu vỏ gỗ thì chưa có mẫu tàu chuẩn; mặt khác các mẫu tàu vỏ thép đã được ban hành chưa thực sự phù hợp yêu cầu của ngư dân và đặc điểm nghề nghiệp các vùng biển; do đó nếu muốn đóng mới thì ngư dân phải thay đổi thiết kế. Trong 70 cơ sở đóng tàu được công bố, có nhiều cơ sở chưa đảm bảo nên gây trở ngại cho việc hợp đồng đóng mới của ngư dân các địa phương. Nhìn chung, mẫu tàu và cơ sở đóng tàu cần phải sâu sát thực tế và lắng nghe thảo luận với các chủ tàu, địa phương và ngư dân.
Về việc vay vốn từ các ngân hàng thì thế nào, thưa ông?
Vốn liếng của ngư dân đã được đầu tư vào các phương tiện, thiết bị hiện có; do đó khi vay vốn đóng tàu lại thiếu vốn đối ứng theo quy định, nếu bán tàu và thiết bị hiện có để góp vốn thì trước mắt ngư dân không có phương tiện để sản xuất. Nhiều ngư dân còn băn khoăn về khả năng trả nợ và nguồn vốn vay lớn để đóng tàu và các trang thiết bị.
Ngoài ra, việc định hướng đóng tàu đánh bắt xa bờ nói chung chưa được hướng dẫn cụ thể vùng nào nên đóng tàu để làm nghề gì, số lượng bao nhiêu, cỡ tàu nào là phù hợp với nghề đó nhằm phát hiện khai thác bền vững gắn với bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản; phù hợp với khả năng nguồn lợi thủy sản và quy hoạch phát triển nghề cá mỗi vùng.
Ngư dân còn khó tiếp cận vốn đóng tàu mới - Ảnh: Ngọc Thọ
Đối với việc nâng cấp tàu cá hiện nay, các địa phương đang rất lúng túng với yêu cầu phải nâng cấp đồng bộ cả vỏ, máy và trang thiết bị, việc thẩm định giá trị con tàu sau khi đóng mới hoặc nâng cấp có cần thẩm định lại không và nếu có thì phải quy định cơ quan nào thẩm định.
Quy trình, thủ tục, hồ sơ vay vốn và việc thẩm định vốn vay của các ngân hàng quy định thống nhất hiện nay còn khác nhau gây trở ngại cho ngư dân và địa phương trong triển khai thực hiện.
Nhiều ngư dân mong muốn khi đóng tàu mới nhưng vẫn tiếp tục sử dụng máy cũ, quan điểm của ông về vấn đề này?
Vấn đề tái sử dụng máy cũ của ngư dân trước đây đã được đề cập nhiều, nhưng cái khó là việc đánh giá máy cũ - mới còn nhiều phức tạp. Chúng ta đang chủ trương hiện đại hóa tàu cá, việc sử dụng máy cũ nếu máy cũ chất lượng kém, phương tiện đó sẽ không đạt mục tiêu đề ra. Và vấn đề mấu chốt là, cơ quan nào sẽ đứng ra thẩm định chất lượng những máy này, ai sẽ đánh giá chất lượng sản phẩm đó, nhiều phương tiện máy đã quá cũ, rất khó xác định chất lượng và hiệu quả của máy. Theo tôi, việc sử dụng máy cũ sẽ khó khăn cho việc đánh giá thẩm định chất lượng máy làm cơ sở cho việc xét duyệt và vay vốn. Tốt nhất, nên sử dụng máy mới, tàu mới để thuận lợi cho việc hoàn thiện thủ tục và vay vốn…
Hội có kiến nghị gì với các bộ, ban ngành và địa phương trong việc thực hiện Nghị định 67?
Chúng tôi đề nghị Bộ NN&PTNT chủ trì phối hợp với các ngân hàng thương mại, Hội nghề cá Việt Nam và các ngành liên quan, tổ chức hội thảo với các địa phương để trao đổi, thống nhất các giải pháp tháo gỡ khó khăn vướng mắc về trình tự, thủ tục, điều kiện cụ thể để vay vốn đóng tàu và mua sắm thiết bị phục vụ sản xuất và dịch vụ cho hoạt động đánh bắt.
Và để nâng cao chất lượng đóng mới, sửa chữa tàu cá, hiệu quả hoạt động dịch vụ cho các tàu đánh bắt xa bờ, đề nghị Bộ NN&PTNT chỉ đạo Tổng cục Thủy sản và các đơn vị chức năng tiếp tục có kế hoạch nâng cấp xây dựng, phát triển các cơ sở đóng sửa tàu thuyền, hệ thống cảng cá, khu neo đậu tránh trú bão cho tàu cá.
Để đảm bảo việc đầu tư, phát triển đội tàu đánh bắt xa bờ có hiệu quả, đề nghị Bộ NN&PTNT chỉ đạo các cơ quan chức năng như Tổng cục Thủy sản, Viện nghiên cứu hải sản, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia… tổng kết, đánh giá nhân rộng các tiến bộ kỹ thuật trong hoạt động đánh bắt xa bờ để hướng dẫn các địa phương tổ chức đầu tư phát triển nghề nghiệp đánh bắt phù hợp ngư trường và nguồn lợi từng vùng. Đặc biệt, đẩy mạnh công tác dự báo ngư trường, nguồn lợi theo thời gian ngắn hạn để hỗ trợ ngư dân.
Nghị định 67/2014/NĐ-CP của Chính phủ ban hành nhiều loại chính sách, tuy nhiên hiện nay các địa phương mới chú ý chính sách vay vốn đóng tàu mà chưa quan tâm các chính sách khác (như phát triển cơ sở hạ tầng cảng cá, khu neo đậu tránh trú bão, hỗ trợ ngư dân mua bảo hiểm tai nạn thuyền viên, bảo hiểm thân tàu, ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ, đào tạo đội ngũ khai thác xa bờ, phối hợp với các lực lượng…).
Để triển khai có hiệu quả các chính sách tại Nghị định đã ban hành đề nghị Bộ NN&PTNT có chỉ đạo, hướng dẫn các đại phương dành sự quan tâm đúng mức nhằm phát triển đồng bộ và có hiệu quả ngành thủy sản.
>> "Hiện nay có một số doanh nghiệp đứng ra chủ trì lập dự án xin vay vốn nhập khẩu tàu cá nước ngoài để trang bị cho ngư dân đánh bắt, đề nghị Bộ NN&PTNT cần có hướng dẫn cụ thể không để xảy ra tình trạng lợi dụng chính sách ưu đãi của Nhà nước để trục lợi, thực thi không đúng đối tượng, không đáp ứng được hiệu quả đầu tư và chính sách phát triển thủy sản" - ông Hoàng Đình Yên.
Tin, ảnh: Ngọc Thọ - Dương Thảo
VỰC DẬY CHẤT LƯỢNG CÁ TRA GIỐNG
(Thủy sản Việt Nam) - Là một trong những đối tượng chủ lực của ngành thủy sản, tuy nhiên, thời gian qua, ngành hàng cá tra vẫn chưa vượt qua những khó khăn nội tại của mình; trong đó, phải kể đến đó là chất lượng cá giống còn nhiều hạn chế.
Quá nhiều lo ngại
Việc sản xuất và cung ứng giống cá tra tại các tỉnh ĐBSCL phần lớn do người dân tự phát, tự cân đối nên phát triển chưa đồng bộ giữa số lượng cũng như chất lượng. Chất lượng con giống có chiều hướng suy giảm trong những năm gần đây với những biểu hiện như tỷ lệ dị hình cao, chậm lớn, dễ nhiễm bệnh và tỷ lệ sống thấp. Giá cá bột không có sự khác biệt giữa cá có cải thiện di truyền và cá tại địa phương. Từ đó ảnh hưởng đến tâm lý, các cơ sở chưa mạnh dạn đầu tư theo đúng quy trình đối với đàn cá cải thiện di truyền. Chưa có sự phối hợp chặt giữa cơ sở sản xuất giống và người nuôi thương phẩm dẫn đến việc tiêu thụ con giống ở nhiều thời điểm gặp không ít khó khăn, khi thừa khi thiếu.
Và dù Nghị định 36 về nuôi chế biến và xuất khẩu cá tra đã được ban hành nhưng một số quy định chưa được thực hiện tại một số địa phương, doanh nghiệp. Thông tư 26 và Thông tư 14 (nay là Thông tư 45) áp dụng chưa triệt để đối với sản xuất giống cá tra tại các địa phương.
Nâng chất lượng cá tra phải bắt đầu từ giống - Ảnh: Lê Hoàng Vũ
Rồi tình hình hỗ trợ đàn cá tra bố mẹ cải thiện di truyền chỉ mới cung cấp được lần đầu, số lượng hạn chế nên chưa thể thay thế được đàn cá bố mẹ tại địa phương. Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II chưa cung cấp hồ sơ đàn cá tra bố mẹ chọn giống cho cơ quan quản lý các tỉnh để thuận tiện trong quá trình kiểm tra, giám sát và truy xuất nguồn gốc. Các cơ quan quản lý các tỉnh chưa được trang bị máy đọc chíp nên khó khăn trong quá trình kiểm tra, giám sát đàn cá chọn giống. Một số cơ sở đã nhận đàn cá tra bố mẹ chọn giống nhưng không đủ khả năng nuôi giữ, đề nghị chuyển giao cho các đơn vị khác có đủ năng lực thông qua Sở NN&PTNT. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại Sở NN&PTNT các tỉnh còn lúng túng trong quá trình chuyển giao đàn cá bố mẹ giữa các cơ sở.
Cần sự nỗ lực của địa phương
Ông Nguyễn Huy Điền, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy sản cho rằng, cần quản lý tốt chất lượng con giống để cung cấp cho người nuôi. Cụ thể, Tổng cục Thủy sản tiếp tục hướng dẫn cho các địa phương thực hiện các quy định về quản lý điều kiện sản xuất, kinh doanh và chất lượng giống cá tra theo quy định; đồng thời tập trung công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý về chất lượng cá tra giống tại các tỉnh/thành phố vùng ĐBSCL.
Đối với các địa phương, tham mưu cho UBND tỉnh/thành phố triển khai có hiệu quả Nghị định 36, đặc biệt về công tác quy hoạch và triển khai áp dụng VietGAP cho cá tra. Các địa phương đã được phê duyệt quy hoạch sản xuất giống cần triển khai quy hoạch chi tiết làm cơ sở để kêu gọi cá nhân, tổ chức có đủ điều kiện đầu tư cho sản xuất giống cá tra có chất lượng tốt. Thực hiện tốt các nội dung của Quy chế quản lý cá tra bố mẹ chọn giống, thực hiện báo cáo định kỳ. Tăng cường công tác kiểm tra các yếu tố đầu vào, đặc biệt là chất lượng thức ăn và con giống. Tổ chức tập huấn, hướng dẫn cho các cơ sở sản xuất giống áp dụng các tiêu chuẩn quản lý chất lượng, ghi chép nhật ký đầy đủ, đảm bảo truy xuất được nguồn gốc sản phẩm…
Đại diện lãnh đạo Chi cục Thủy sản tỉnh Đồng Tháp đề nghị Tổng cục Thủy sản tiếp tục thực hiện dự án chuyển giao cá bố mẹ cho các địa phương và thay thế đàn cá bố mẹ sau 4 năm sử dụng. Đồng thời, hỗ trợ những trang thiết bị, máy móc cần thiết để phục vụ cho công tác kiểm soát chất lượng con giống, kiểm soát môi trường nuôi, đào tạo nghiệp vụ cho các cơ quan quản lý địa phương nhằm chủ động hơn trong nhiệm vụ quản lý cá tra giống.
>> Ông Nguyễn Văn Sáng, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II: Năm 2014, cả nước có 230 cơ sở sản xuất giống cá tra, trên 4.000 hộ ương dưỡng cá giống trên diện tích 2.250 ha, sản xuất được hơn 2 tỷ con cá tra giống. Sản lượng cá tra giống tập trung nhiều nhất ở Đồng Tháp, An Giang, Cần Thơ, Tiền Giang.
Tin: Trí Quang
NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT CHO VỤ NUÔI MỚI THỦY SẢN
Hàng năm vào khoảng tháng 2, 3 khi thời tiết ấm dần lên cũng là thời điểm bước vào vụ nuôi cá mới. Để vụ nuôi thành công đòi hỏi người nuôi phải tuân thủ nghiêm ngặt quy trình kỹ thuật nuôi cá. Qua thực tiễn thời gian gần đây cho thấy, chất lượng cá giống ngày càng giảm, thời tiết, môi trường diễn biến có phần phức tạp, nguồn nước ngày càng ô nhiễm tiềm ẩn nhiều mầm bệnh. Do đó người nuôi cần thực hiện tốt các khâu sau:
Kiểm tra trọng lượng cá trước khi thả nuôi.
Chọn ao nuôi: Ao nuôi nên có vị trí thuận lợi cho việc cấp và thoát nước, có nguồn điện ổn định và gần đường giao thông để thuận tiện cho việc vận chuyển con giống, thức ăn và sản phẩm cá. Ao nuôi nên có diện tích từ 2.000 - 5.000m2, hình chữ nhật, chiều dài gấp 1,5 - 2 lần chiều rộng để thuận tiện cho việc chăm sóc và thu hoạch. Nên có ao lắng chiếm diện tích khoảng 20 - 30% và ao xử lý nước thải chiếm diện tích khoảng 10% diện tích của ao nuôi.
Lựa chọn cá giống: Đây là khâu quan trọng quyết định lớn đến sự thành công của vụ nuôi, cá giống phải khỏe mạnh, kích cỡ đồng đều, màu sắc tươi sáng, bơi lội nhanh nhẹn, được mua từ những cơ sở sản xuất giống có uy tín. Cá giống trước khi mua phải được kiểm dịch, không mang mầm bệnh, có thể kiểm tra sức khỏe của cá bằng cách cho cá vào chậu và dùng tay khuấy nhẹ, nếu cá bơi, vận động nhanh nhẹn ngược dòng là cá khỏe. Lưu ý trước khi thả giống cần tắm khử trùng cho cá bằng muối ăn và khi thả cá giống cần mở miệng túi cá để nước ao vào trong túi sau đó để cá từ từ bơi ra, mục đích tránh cho cá bị sốc.
Lựa chọn thức ăn: Thức ăn chiếm 50% - 70% tổng chi phí vụ nuôi, vì vậy thức ăn cần lựa chọn những cơ sở sản xuất lớn có uy tín. Người nuôi cần căn cứ vào từng giai đoạn phát triển của cá mà chọn loại thức ăn đảm bảo cung cấp đủ hàm lượng dinh dưỡng. Nên tạo kho để chứa, bảo quản thức ăn tránh để bị ẩm mốc, ôi thiu gây bệnh cho cá nuôi.
Lựa chọn thuốc và hóa chất xử lý môi trường ao nuôi: Dựa vào quy trình kỹ thuật nuôi để chủ động đưa ra danh mục mua các loại thuốc và hóa chất xử lý môi trường trong quá trình cải tạo ao và nuôi. Người nuôi nên chọn các hãng sản xuất có uy tín để có được loại thuốc, hóa chất và chế phẩm sinh học đảm bảo chất lượng. Khi sử dụng theo khuyến cáo của các nhà chuyên môn và nhà sản xuất để có sự chọn lựa và phương pháp sử dụng hiệu quả nhất.
Để biết chất lượng nước ao nuôi đang ở mức độ nào, có ô nhiễm hay không, người nuôi nên mua một số dụng cụ kiểm tra các thông số môi trường nước như test đo: Oxy; NH3, NO2, H2S, pH để có các biện pháp xử lý môi trường kịp thời.
Thiết bị cung cấp oxy cho ao nuôi: Nên sử dụng một số trang thiết bị nhằm tăng oxy cho cá nuôi như máy quạt nước có tác dụng cung cấp ôxy hòa tan cho cá nuôi, tạo dòng chảy gom chất thải vào giữa ao nuôi, ngoài ra quạt nước còn cung cấp ôxy hòa tan cho các vi khuẩn có lợi dưới đáy ao phân hủy chất hữu cơ.
Cải tạo ao: Trước khi nuôi 20 ngày ao nuôi phải được cải tạo kỹ; nạo vét bùn đáy, bón vôi và phơi khô đáy ao. Bờ ao phải được đầm nén kỹ tránh rò rỉ nước, độ sâu ao (tính cả bờ) phải trên 1,5m.
Nhân lực: Tùy vào diện tích nuôi, loại hình nuôi để chuẩn bị nhân lực cho phù hợp, nhân lực nên có hiểu biết cơ bản về nuôi cá, bố trí nhân lực hợp lý, đảm bảo cá nuôi luôn được chăm sóc và quản lý tốt.
Sổ ghi chép (Sổ nhật ký): Sổ ghi giúp các hộ nuôi có thể hạch toán được chi tiết số tiền đầu tư, tổng doanh thu của vụ nuôi từ đó tính ra hiệu quả kinh tế sau một vụ nuôi. Hơn nữa sổ ghi chép còn ghi lại toàn bộ quá trình quản lý và chăm sóc cá nuôi, đây là những dữ liệu quan trọng giúp cho người nuôi rút ra những kinh nghiệm quý để áp dụng cho vụ nuôi sau, đồng thời là cơ sở để truy xuất nguồn gốc sản phẩm sau này khi đưa ra thị trường.
Trên đây là một số lưu ý cần thiết trước khi bước vào vụ nuôi mới, để góp phần cho vụ nuôi được thành công.
Tô Thị Thu (Trung tâm Khuyến nông - Khuyến ngư Bắc Ninh) - Báo Bắc Ninh, 25/03/2015
XÂY AO LẮNG TRONG NUÔI TÔM CÔNG NGHIỆP: BIỆN PHÁP PHÒNG NGỪA DỊCH BỆNH TÔM NUÔI.
Cải tạo môi trường nước, nhờ các loại vi khuẩn có lợi, rong tảo, các giá thể tự nhiên giúp lắng tụ các chất ô nhiễm độc hại lơ lửng hay hòa tan trong nước, bảo đảm khi cho nước cấp vào ao nuôi được ổn định, an toàn, ngăn ngừa được các loại dịch bệnh nguy hiểm, đó là những ưu điểm mà ao lắng trong nuôi tôm công nghiệp mang lại.
Ao lắng trong nuôi tôm công nghiệp của một hộ dân ở xã Phước Thuận, huyện Xuyên Mộc.
Tại tỉnh BR-VT, tình hình dịch bệnh trên tôm nuôi nước lợ vẫn còn xảy ra phổ biến.Tôm chết chủ yếu vẫn ở giai đoạn đầu, sau khi thả nuôi từ 20 - 30 ngày, do các loại bệnh hoại tử gan tụy cấp, bệnh đốm trắng… Tôm chết xảy ra tại các địa bàn, vùng nuôi trọng điểm của tỉnh như huyện Xuyên Mộc, huyện Đất Đỏ và TP. Vũng Tàu đã gây thiệt hại khá lớn cho người nuôi. Ngoài nguyên nhân làm tình hình dịch bệnh ngày càng trầm trọng như nguồn giống không bảo đảm chất lượng, công tác quản lý chăm sóc, phòng trừ dịch bệnh…, còn có một lý do mà lâu nay người nuôi tôm chưa chú ý quan tâmlà bố trí ao lắng trong khu nuôi.
Để có một vụ mùa thành công và đạt hiệu quả, người nuôi nên sử dụng ao lắng trong nuôi tôm nước lợ. Đây là một yếu tố tưởng chừng như đơn giản, nhưng chính nó góp phần quan trọng cho sự thành công của một số mô hình nuôi tôm nước lợ trên địa bàn tỉnh trong những năm vừa qua. Ông Đỗ Lương Tịnh, ở ấp Ông Tô, xã Phước Thuận (huyện Xuyên Mộc) là một điển hình, liên tục thành công 5 năm liền, chỉ tính riêng doanh thu năm 2014 đạt hơn 15 tỷ đồng. Theo ông Đỗ Lương Tịnh, với vùng nuôi quanh năm thiếu nước mặn, dịch bệnh liên tục hoành hành, ngoài các yếu tố quản lý chăm sóc tốt thì việc bố trí diện tích ao lắng phù hợp, áp dụng phương pháp tuần hoàn và cải tạo nước là giải pháp thích hợp.
Trước đây, các tài liệu thường hướng dẫn người nuôi tôm nên để lại khoảng từ 10-15% diện tích để làm ao lắng, nhưng hiện nay, theo khuyến cáo của Tổng cục Thủy sản, diện tích ao lắng phải là 20 - 25%. Tại ao lắng, cơ quan chuyên môn khuyến cáo người nuôi tôm nên thả 50kg cá rô phi đơn tính, trọng lượng 50gr/con vào 3.000 m2 ao.Cá rô phi góp phần tăng thêm thu nhập cho bà con, đồng thời cải tạo môi trường nước nuôinhờ các loại vi khuẩn có lợi, rong tảo, các giá thể tự nhiên giúp lắng tụ các chất ô nhiễm độc hại lơ lửng hay hòa tan trong nước, để bảo đảm khi cho nước cấp vào ao nuôi tôm được ổn định, an toàn, ngăn ngừa được các loại dịch bệnh nguy hiểm. Mỗi chu kỳ lắng chỉ cần khoảng trên 20 ngày, bảo đảm không có giáp xác, không bị ô nhiễm từ bên ngoài, an toàn và sẵn sàng cấp bù nước vào ao nuôi khi cần.
Trên thực tế cho thấy, ao lắng - khu lắng xử lý nước rất quan trọng và cần thiết, bảo đảm cho nuôi tôm được an toàn, hiệu quả kinh tế cao. Vì vậy, muốn có được nguồn nước sạch phục vụ nuôi tôm trong tình hình dịch dệnh luôn tiềm ẩn nhiều nguy cơ như hiện nay, các hộ nuôi cần chú ý đầu tư cho khu nuôi diện tích đất phù hợp, thiết kế ao lắng khoa học, thực hiện đúng khung lịch mùa vụ, sử dụng nguồn giống bảo đảm chất lượng, quản lý chăm sóc đúng theo quy trình hướng dẫn của cơ quan chuyên môn. Làm được điều này, chắc chắn bà con sẽ có một mùa nuôi 2015 thành công và bội thu.
Tổng cục Thủy sản đã tổ chức khảo sát các mô hình nuôi tôm an toàn trong vùng dịch bệnh. Kết quả khảo sát cho thấy có sự khác biệt trong một số khâu kỹ thuật như: Thời gian cải tạo ao, phơi đáy dài ngày hơn theo thông thường, người nuôi chỉ diệt tạp trong ao chứa mà không diệt tạp trong ao nuôi, hạn chế tối đa việc sử dụng hóa chất vào trong quá trình nuôi, trong ao chứa có thả cá rô phi nhằm cải tạo môi trường nước tự nhiên. Ngoài ra, người nuôi tôm quản lý các yếu tố môi trường và màu nước trong ao nuôi bằng chế phẩm sinh học, điều đặc biệt quan trọng đó là các cơ sở nuôi tại các nơi đoàn khảo sát đều có hệ thống ao chứa, ao lắng, ao xử lý riêng biệt.
NGUYỄN THI - Báo Bà Rịa Vũng Tàu, 18/03/2015
LONG AN: MỘT SỐ LƯU Ý KHI LẤY NƯỚC VÀO AO NUÔI TÔM
Trên các huyện vùng Hạ hiện nay có khá lớn diện tích ao nuôi tôm đang được bà con nông dân cải tạo và lấy nước chuẩn bị thả giống. Tuy nhiên, theo thông báo kết quả quan trắc môi trường nước vùng Hạ vào ngày 02 tháng 02 năm 2015 các huyện Châu Thành, Cần Đước, Cần Giuộc, Tân Trụ (Long An) vẫn còn một số yếu tố môi trường nước chưa phù hợp để thả giống đặc biệt hàm lượng khí độc NO2 trong nước. Do đó, khi bà con nông dân lấy nước vào ao nuôi cần lưu ý xử lý nước nhằm đảm bảo phù hợp cho tôm sinh trưởng, giảm hao hụt.
Tựu chung, bà con nuôi tôm khi lấy nước vào ao tại thời điểm này cần thực hiện một số biện pháp như sau:
Đối với những ao vừa cải tạo nên lấy nước vào ao khoảng 1 - 2 tấc, sau đó rải lân với liều lượng 10kg/1.000m2 ao, ngâm ao trong thời gian từ 5 - 7 ngày rồi xổ xả toàn bộ. Sau đó, bà con cho rải vôi đều khắp đáy ao, nếu dùng vôi Càn Long thì rải khoảng 30kg/1.000m2 ao, nếu dùng Dolomite thì rải 60kg/1.000m2 ao, nếu dùng Daimetyl bột thì rải 40kg/1.000 m2 ao. Sau khi rải vôi, cho phơi ao từ 2 - 3 ngày rồi lấy nước đầy ao. Bà con cần lưu ý tuyệt đối không sử dụng thuốc bảo vệ thực vật để diệt cá tạp và giáp xác.
Đối với những ao nuôi đã lấy nước và chưa thả giống, bà con cần diệt khuẩn 2 lần bằng 2 loại thuốc diệt khuẩn khác nhau. Sau đó thực hiện gây màu nước, khi nước ao đạt độ trong 30 - 40 cm là thích hợp. Bà con nên thả giống theo đúng lịch thời vụ khuyến cáo bắt đầu từ ngày 10 tháng 2 năm 2015 của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Riêng đối với những ao nước quá trong, khó gây màu, bà con nên dùng EDTA để khử hàm lượng kim loại nặng trong môi trường nước trước khi tiến hành gây màu. Sau đó, nâng độ kiềm trong môi trường nước tối thiểu đạt 100 mg/lít, ổn định nhiệt độ bằng cách nâng mực nước trong ao nuôi đạt mức 1,3 - 1,5 mét, diệt rong và bổ sung phân DAP khoảng 2 - 3 kg/ 1.000m3.
Trong quá trình lấy nước và xử lý nước vào ao nuôi bà con nên theo dõi kỹ hàng ngày để có biện pháp điều chỉnh thích hợp. Nếu gặp khó khăn, vướng mắc bà con nên dành thời gian liên hệ với các Trạm Khuyến nông ở địa phương để được hướng dẫn thêm.
Huỳnh Phương Thảo
Trung tâm Khuyến nông Long An - Long An, 01/02/2015
QUÝ 1, SẢN LƯỢNG KHAI THÁC VÀ NUÔI TRỒNG THỦY SẢN ĐẠT HƠN 1 TRIỆU TẤN
Nguồn tin: VOV, 31/03/2015
Ngày cập nhật: 1/4/2015
Giá thu mua của các doanh nghiệp đầu mối ổn định, điều này đã giúp ngư dân có lãi và tăng cường bám biển.
Tại các vùng biển phía Bắc và Nam do thời tiết tương đối thuận lợi cho hoạt động khai thác thủy sản, trong đó nhiều tàu trúng đậm cá cơm và ruốc. Ngoài ra, giá thu mua của các doanh nghiệp đầu mối ổn định, điều này đã giúp ngư dân có lãi và tăng cường bám biển.
Ước sản lượng khai thác thuỷ sản 3 tháng năm 2015 đạt 750 nghìn tấn, tăng 3,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó sản lượng khai thác biển đạt 705 nghìn tấn, tăng 2,6% so với cùng kỳ năm trước.
Quý I, sản lượng khai thác cá ngừ mắt to vây vàng tại các tỉnh trọng điểm như Phú Yên, Bình Định, Khánh Hòa đều tăng so với cùng kỳ năm ngoái. Hiện tại thương lái mua cá tại tầu với giá bán 150.000 đồng/kg loại 1, loại 2 giá giao động từ 110.000đ – 130.000đ/kg.
Sản lượng nuôi trồng thủy sản tháng 3/2015 ước đạt 368 ngàn tấn, tăng 111,5% so với cùng kì năm trước, đưa tổng sản lượng nuôi trồng thủy sản 3 tháng đầu năm đạt 510 ngàn tấn, tăng 2,4% so với cùng kỳ.
Sản lượng thu hoạch cá tra 3 tháng đầu năm ước đạt 182.000 tấn, giảm 10% so với cùng kỳ năm ngoái.
Theo báo cáo của các Sở NN&PTNT thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long, sản lượng cá tra 3 tháng đầu năm 2015 của một số tỉnh tăng so với cùng kỳ năm 2014.
Tình hình nuôi tôm trong tháng diễn biến thuận lợi, các diện tích thả nuôi tôm trong khung thời vụ, tôm đang phát triển tốt.
PV/VOV.VN
NÂNG CAO NHẬN THỨC CỦA NGƯỜI DÂN Ở ĐBSCL VỀ TÀI NGUYÊN THỦY SẢN SÔNG MÊ CÔNG
Nguồn tin: Báo Cần Thơ, 27/03/2015
Ngày cập nhật: 30/3/2015
Ngày 27-3, Khoa Thủy sản (Trường Đại học Cần Thơ) phối hợp với Trung tâm Bảo tồn và Phát triển Tài nguyên nước (Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam) tổ chức Hội thảo khởi động Đề tài nghiên cứu “Nhận thức của người dân ở ĐBSCL về tài nguyên thủy sản sông Mê Công”.
Theo các chuyên gia, người dân ĐBSCL sống phụ thuộc vào nguồn nước và các hệ sinh thái thủy sinh ven sông. Tuy nhiên, biến đổi khí hậu, phát triển cơ sở hạ tầng và thay đổi mục đích sử dụng đất đã và đang gây ra sự thay đổi lớn về chế độ thủy văn, giảm nguồn cung cấp nước cho hạ nguồn. Đây cũng là nguyên nhân chính làm thay đổi môi trường sống của các loài cá và động vật thủy sinh khác. Từ thực tế này, việc nghiên cứu Đề tài nhằm mục đích hỗ trợ người dân ĐBSCL hình thành năng lực, tham gia hiệu quả hơn vào quá trình ra quyết định thực hiện các dự án liên quan đến tài nguyên nước và khai thác nguồn lợi thủy sản. Kết quả nghiên cứu khoa học còn đưa ra các bằng chứng khách quan về tác động hiện có và tiềm tàng của các công trình tới nguồn tài nguyên thủy sinh và sinh kế của người dân. Ngoài ra, nhằm nâng cao nhận thức cộng đồng về giá trị hệ sinh thái sông và tài nguyên thủy sản, các cuộc triển lãm ảnh, ấn phẩm, tờ rơi về các hệ sinh thái sông được thực hiện và phổ biến rộng rãi tại các trường học, nơi công cộng. Theo Ban chủ nhiệm đề tài, các báo cáo và khuyến nghị từ việc nghiên cứu đề tài sẽ được gửi tới các cơ quan hữu quan nhằm hướng tới việc quản lý tài nguyên nước, nguồn lợi thủy sản và bảo vệ môi trường một cách hiệu quả hơn. Dự kiến thời gian thực hiện đề tài kéo dài từ 1-1-2015 đến 31-12-2016.
Tin: CHI MAI
.
TIỀN GIANG: GIÁ CÁ ĐIÊU HỒNG GIẢM NHẸ DO NHU CẦU TIÊU THỤ GIẢM
Nguồn tin: Tiền Giang, 28/03/2015
Ngày cập nhật: 30/3/2015
Hiện nay, cá điêu hồng được các thương lái mua với giá 32.500 - 34.000 đồng/kg, giảm 500 - 1.000 đồng/kg so với tháng trước. Với giá bán này, nông dân có lãi từ 10 - 20 triệu đồng/bè sau mỗi vụ nuôi.
Ông Bùi Băng Sơn, chủ doanh nghiệp tư nhân Sơn, xã Đạo Thạnh, Tp Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang cho biết, hiện nay doanh nghiệp mua cá điêu hồng cho nông dân nuôi bè ở xã Thới Sơn và phường Tân Long với giá 34.000 đồng/kg nếu bắt cá oxy (cá sống đựng trong bao nilong có bơm oxy), còn đối với hình thức bắt bằng ghe đục (ghe có khoang thông đáy bằng lưới để chứa cá) thì doanh nghiệp mua giá 32.500 - 33.000 đồng/kg. So với thời điểm trước Tết, giá cá điêu hồng các loại giảm 500 - 1.000 đồng/kg. Nguyên nhân khiến cá điêu hồng giảm là do thị trường tiêu thụ cá sau Tết giảm, còn nguồn cung cá tương đối ổn định.
Nhiều nông dân nuôi cá bè ở TP. Mỹ Tho cho hay, chi phí nuôi cá điêu hồng trên bè hiện nay ở mức 30.000 - 32.000 đồng/kg. Với năng suất bình quân hơn 5 tấn/ha và giá như hiện nay, sau thời gian nuôi từ 6 - 8 tháng, nông dân thu lãi từ 10 - 20 triệu đồng/bè (tùy theo chất lượng cá giống và kỹ thuật nuôi).
Hiện cá điêu hồng làng bè ven sông thuộc địa bàn tỉnh Tiền Giang được các thương lái tại địa phương và TP. Hồ Chí Minh xuống tận bè mua rồi tập kết ở chợ đầu mối thủy sản Bình Điền, TP. Hồ Chí Minh, để tiêu thụ nhiều nơi. Mặc dù giá cá giảm nhẹ nhưng tình hình tiêu thụ vẫn ổn định, do cá điêu hồng được thị trường ưa chuộng.
Theo số liệu thống kê của Chi cục Thủy sản tỉnh, hiện toàn tỉnh có 1.031 bè cá đang thả nuôi trong tổng số 1.336 bè cá neo đậu (chiếm 76,17%), chủ yếu là nuôi cá điêu hồng. Từ đầu năm đến nay, nông dân thả nuôi mới 404 bè, với 8,6 triệu giống và thu hoạch 411 bè sản lượng 2.397 tấn.
Tin: Thành Công
KHAI THÁC HẢI SẢN ĐÃ VƯỢT TRỮ LƯỢNG CHO PHÉP
Nguồn tin: Báo Khánh Hòa, 27/03/2015
Ngày cập nhật: 30/3/2015
Đó là ý kiến của ông Phạm Anh Tuấn, Phó Tổng cục trưởng Tổng Cục thủy sản tại hội thảo “Trao quyền cho cộng đồng ven biển và hải đảo để quản lý và bảo vệ tài nguyên biển” do Trường Đại học Nha Trang, Lãnh sự quán Hoa Kỳ, Tổng cục Thủy sản tổ chức tại Nha Trang, ngày 26 và 27-3.
Theo ông Phạm Anh Tuấn, ở nước ta, việc khai thác hải sản quá mức, đặc biệt khai thác hải sản vùng ven bờ đã vượt quá khả năng trữ lượng cho phép. Cụ thể, năm 1990, sản lượng khai thác của cả nước là 672.000 tấn hải sản, đến năm 2014 là 2,6 triệu tấn, gấp hơn 3 lần so với năm 1990. Tuy nhiên, việc khai thác hải sản bộc lộ những hạn chế, ảnh hưởng đến hiệu quả và tính bền vững của ngành, như: số lượng tàu khai thác hải sản tăng, nhưng năng suất theo tàu thuyền và công suất lại có xu hướng giảm dần, từ 0,49 tấn/CV năm 2001 xuống 0,37 tấn/CV năm 2014 (giảm 3,1%/năm). Điều này chứng tỏ, sự gia tăng số lượng tàu khai thác không tương xứng với nguồn lợi hải sản có thể khai thác. Ngoài ra, việc khai thác hải sản đang gặp nhiều vấn đề bất cập như: tỷ lệ thất thoát sau thu hoạch cao khoảng 20%; an ninh trên biển ngày càng phức tạp; truy suất nguồn gốc hải sản chưa được thực hiện nghiêm; mới có khoảng 30% tổng số thuyền trưởng, máy trưởng đã thông qua đào tạo…
Tin: QUANG ĐỨC
MÔ HÌNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 3 TRONG 1 HẠN CHẾ DỊCH BỆNH ĐẠT HIỆU QUẢ CAO TẠI SÓC TRĂNG
Năm 2014, dịch bệnh tôm nuôi nước lợ trên cả nước lên đến gần 60.000 ha, riêng tỉnh Sóc Trăng thiệt hại cao nhất lên đến gần 20.000 ha. Tuy nhiên, cũng nằm trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng có một cơ sở nuôi tôm rất hiệu quả. Chúng tôi xin giới thiệu để bà con tham khảo mô hình nuôi tôm trên 10 năm chưa bị dịch bệnh, đó là Hợp tác xã Hòa Nghĩa, xã Hòa Đông, thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng với 17 xã viên.
Đoàn cán bộ Trung tâm KN Quốc gia trao đổi kinh nghiệm nuôi tôm với HTX Hòa Đông.
Ông Tăng Văn Tuối, Chủ nhiệm hợp tác xã cho biết: Trước kia nuôi tôm sú, sau đó thấy nuôi tôm thẻ chân trắng hiệu quả hơn nên Hợp tác xã chuyển sang nuôi tôm thẻ. Để hạn chế dịch bệnh hợp tác xã có sự chỉ đạo thống nhất cho tất cả các xã viên là 5 cùng (cùng chuẩn bị ao, cùng lấy nước, cùng thả giống, cùng chế độ chăm sóc quản lý và cùng phòng trừ dịch bệnh), đồng thời thông báo cho nhau biết tình trạng tôm nuôi hàng ngày. Ông Tuối cho biết các bước thực hiện như sau:
Bước 1: Chuẩn bị nước vào ao lắng:
Cả hợp tác xã có 53 ha, cứ 5 - 8 ha lại có một ao lắng để cấp nước đã qua xử lý cho các ao nuôi tôm, theo chỉ đạo của Hợp tác xã, khi con nước lớn và sạch mới lấy nước vào ao lắng, sau đó khử trùng bằng Iodine, sau 5 - 7 ngày mới lấy nước vào ao nuôi tôm, tuyệt đối không sử dụng thuốc bảo vệ thực vật để xử lý ao nuôi và ao lắng.
Bước 2: Gây màu nước tại ao nuôi:
Sau khi đã chuẩn bị ao chu đáo (tháo cạn, vét bùn, phơi khô, khử trùng), chăng lưới ngăn cua, còng, cáy… lấy nước vào qua túi lọc bằng vải dày nhằm loại bỏ ấu trùng, tôm, cua, còng cáy, cá tạp, côn trùng. Trước khi lấy nước vào ao nuôi kiểm tra và bổ sung đầy đủ các thông số cần thiết phù hợp với môi trường tôm sinh trưởng.
Khi đã đưa nước vào ao nuôi, tiến hành gây màu nước theo nước công thức 3:2:1, tức là 3 kg cám + 2 kg bột đậu nành + 1 kg bột cá, ủ hỗn hợp này khoảng từ 24 - 36 tiếng, sau khi đã lên men, té xuống ao để gây màu nước với liều lượng 3 – 4 kg/1000m3 nước, té liên tục trong 3 ngày là màu nước lên đẹp, đảm bảo cho tôm phát triển tốt.
Bước 3: Chọn và thả tôm giống:
- Chọn tôm giống: Thả tôm giống PL12 trở lên, tôm có màu sắc tươi sáng, đều cỡ, khỏe mạnh, được các cơ sở sản xuất có uy tín cung ứng. Đặc biệt không mua tôm giá rẻ, bán trôi nổi, tôm giống phải có cơ quan chuyên môn xác định âm tính về các bệnh: MBV, đốm trắng, đầu vàng, IMNV, gạn tụy…
- Thả đúng mùa vụ, chọn thời điểm mát để thả (chiều tối hoặc sáng sớm), ngâm túi 20 - 30 phút trước khi thả, mật độ 50 con/m2.
- Trước khi thả tôm, Hợp tác xã tiến hành thả cá kèo, cá rô phi trực tiếp xuống ao, mật độ cá rô phi là 5 con/100m2, cỡ cá 20 - 30 con/kg; cá kèo thả mật độ 4 con/10m2, cỡ cá kèo 30 – 40 con/kg, thả cá kèo và cá rô sau 7 - 10 ngày thì thả tôm. Thả cá kèo và rô phi là để cải tạo môi trường nước, không nhằm mục đích tăng doanh thu từ 2 đối tượng này.
Ông Tăng Văn Tuối - Chủ nhiệm HTX Hòa Đông (thứ Nhất từ phải sang) đang giới thiệu về mô hình nuôi tôm kết hợp nuôi cá kèo và cá rô phi của HTX.
Bước 4: Chăm sóc, quản lý:
- Cho ăn: 20 ngày đầu khi thả tôm có tính thêm thức ăn cho cá kèo và cá rô phi, lượng thức ăn cho cá kèo và cá rô phi tương đương 2% khối lượng cá thả. Sau 20 ngày chỉ tính thức ăn cho tôm, không cho rô phi và cá kèo ăn nữa, vì chúng đã có chất thải của tôm và thức ăn dư thừa. Thức ăn cho tôm có độ đạm từ 32 - 38%, có nhãn mác rõ ràng, có uy tín, cho ăn 4 đúng (đúng chất lượng, đúng số lượng, đúng thời gian, đúng địa điểm), kích cỡ thức ăn theo độ tuổi của tôm. Ngày cho ăn 5 lần (sáng, gần trưa, đầu giờ chiều, chiều tối, 21 giờ đêm), đặc biệt phải chú ý dùng quạt nước 24/24 giờ để tôm đủ oxy. Trong quá trình nuôi, cứ 10 ngày lại dùng 5 kg đường mật + 4 lít Super vs, bón cho 1.000 m3 để ổn định pH (tùy theo màu nước để quyết định bón bổ sung). Ông Tăng Văn Tuối cho biết, khi nuôi tôm xen với cá kèo, cá rô phi (mô hình 3 trong 1 này), chúng hỗ trợ nhau, các chất hữu cơ, thức ăn thừa được chúng sử dụng hết , …nên đáy ao sạch, ổn định màu nước, ức chế các vi sinh vật có hại, thúc đẩy các vi sinh vật có lợi phát triển, tăng sức khỏe cho tôm, do đó tôm lớn nhanh, ít bệnh, hiệu quả cao hơn hình thức nuôi khác rất nhiều do tỷ lệ tôm sống rất cao, thường đạt trên 90%.
- Chăm sóc: Trong quá trình nuôi phải luôn quan sát màu nước và sức khỏe tôm để xứ lý hàng ngày (quyết định số lượng thức ăn, chế phẩm sinh học, bổ sung nước…). Thường xuyên bổ sung khoáng vào môi trường nước và thức ăn cho tôm, ngoài ra còn phải cho tôm ăn thêm vitamin C, bổ gan, cho ăn liên tục từ khi tôm được 20 ngày tuổi cho đến lúc thu hoạch.
- Quản lý môi trường nước: Hàng ngày phải tiến hành đo các yếu tố như nhiệt độ, pH, DO, NH3, độ mặn để xử lý kịp thời, riêng độ kiềm khi nuôi cùng cá kèo thì rất ổn định, không bao giờ phải lo về độ kiềm. Độ sâu của nước tốt nhất duy trì từ 1,2 - 1,4 m.
Bước 5: Thu hoạch (trong suốt quá trình nuôi không sử dụng bất kỳ một loại kháng sinh, hóa chất nào để phòng trị bệnh, nhưng có nuôi luân canh cá rô phi để cải tạo chất đáy). Sau 90 ngày nuôi, tôm đạt cỡ 40 con/kg thì tiến hành thu hoạch, chú ý không thu hoạch vào thời kỳ tôm lột xác, trước khi thu hoạch phải tăng độ kiềm cho tôm cứng vỏ, chất lượng và giá bán sẽ cao hơn. Năng suất đạt bình quân 21 tấn/ha/năm, giá bán bình quân 160.000 – 180.000 đồng/kg, doanh thu 3,5 tỷ đồng/ha/năm, trừ hết chi phí còn lãi 1,78 tỷ đồng/ha/năm.
Mặc dù hợp tác xã phát triển ổn định sau 12 năm thành lập, các xã viên phấn khởi làm ăn, tuy nhiên để nghề nuôi tôm phát triển bền vững, Hợp tác xã xin kiến nghị với Bộ Nông nghiệp & PTNT và tỉnh Sóc Trăng như sau:
- Nuôi tôm nhỏ lẻ, tự phát gây ô nhiễm môi trường, năm sau trầm trọng hơn năm trước, nguyên nhân do nuôi tôm xả thải bừa bãi thiếu kiểm soát, tỉnh cần có biện pháp xử lý kịp thời.
- Nên tuyên truyền vận động để các hộ nuôi tôm thành lập các hợp tác xã hoặc tổ nhóm liên kết cộng đồng để công tác quản lý thuận lợi hơn.
- Nhà nước đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng để có đường giao thông thuận lợi và đảm bảo đủ điện 24/24 phục vụ cho sản xuất.
Thiết nghĩ, để nuôi tôm đạt hiệu quả cao và bền vững có nhiều cách, nhưng muốn trở thành “tỷ phú tôm”, ngoài kỹ thuật chung ra thì người nuôi phải có phương pháp và cách đi riêng, trong đó cần có nhiều sự sáng tạo. Nhờ có sự sáng tạo và phương pháp nuôi hiệu quả mà HTX Hòa Nghĩa đã nuôi tôm thành công.
PGĐ. Kim Văn Tiêu
Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, Khuyến Nông VN, 07/02/2015
ĐỂ MÔ HÌNH NUÔI GHÉP CÁ RÔ PHI VÀO AO TÔM ĐẠT HIỆU QUẢ CAO
Thời gian qua, mô hình nuôi ghép hay nuôi kết hợp cá rô phi với tôm đang trở nên phổ biến vì những hiệu quả thiết thực mà loài cá này mang lại cho tôm nuôi. Theo các nhà khoa học, cá rô phi có tập tính đảo trộn các tầng nước trong ao, giúp đáy ao và nguồn nước ao nuôi tốt hơn. Cá rô phi cũng ăn mùn bã hữu cơ giúp giảm lượng chất thải trong ao nuôi, hạn chế sự phát triển của vi khuẩn có hại, kích thích sự phát triển các loại tảo có lợi và tiêu diệt một số vật chủ trung gian mang mầm bệnh.
Mô hình nuôi ghép cá rô phi vào ao tôm ở HTX Hòa Nghĩa, thị xã Vĩnh Châu.Mô hình nuôi ghép cá rô phi vào ao tôm ở HTX Hòa Nghĩa, thị xã Vĩnh Châu.
Hợp tác xã (HTX) sản xuất dịch vụ nuôi trồng thủy sản Hòa Nghĩa, ấp Cảng Buối, xã Hòa Đông, thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng có 17 thành viên, qua hơn 10 năm thăng trầm với nghề nuôi tôm nước lợ, hiện các thành viên trong HTX đều có mức sống trên trung bình và khá giàu. Đặc biệt trong 3 năm qua, khi tình hình nuôi tôm khá căng thẳng, người nuôi tôm trong tỉnh bị thua lỗ rất nhiều, thì các thành viên HTX Hòa Nghĩa vẫn thu được lợi nhuận. Trong năm 2014, HTX thu khoảng 15 tấn tôm sú và gần 95 tấn tôm thẻ chân trắng, tuy giá tôm giảm so với năm 2013, nhưng HTX cũng thu về hơn 11 tỉ đồng, trong đó bà con có lợi nhuận gần 5 tỉ đồng. Thành công đó là nhờ bên cạnh quản lý chặt chẽ chất lượng con giống, mật độ thả nuôi thưa, HTX còn chủ trương nhân rộng mô hình nuôi cá rô phi để xử lý nước trong ao lắng và nuôi ghép cá rô phi, cá kèo với con tôm, tạo hệ thống máy lọc sinh học xử lý môi trường ao nuôi tôm. Ông Phan Văn Sang – Trạm khuyến nông thị xã Vĩnh Châu cho biết: “Hiện nay bà con Vĩnh Châu đang tuân thủ theo lịch khuyến cao thả nuôi vụ tôm năm 2015, đồng thời chú ý xử lý nước để tạo môi trường ao nuôi tốt. Đặc biệt mô hình thả nuôi ghép cá rô phi, cá kèo vào ao nuôi tôm rất hiệu quả, vừa tiết kiệm chi phí đầu vào vừa đảm bảo màu nước trong suốt quá trình nuôi”.
Trước đây, theo cách nuôi truyền thống, các hộ nuôi đào ao, khử tạp rồi mới tiến hành thả nuôi, trong đó khâu khử tạp chiếm vị trí quan trọng vì phải làm sạch các loại cá trong ao mới thả giống, không để cá tạp ăn tôm non vừa mới thả. Tuy nhiên, đối với đối tượng nuôi ghép là cá rô phi thì bà con không phải lo lắng về vấn đề này, do đặc điểm của cá rô phi khi còn nhỏ (khoảng dưới 2 cm/con) có thiên hướng ăn động vật hoặc thực vật thủy sinh, khi cá lớn (khoảng 100g/con) thì ăn thực vật hoặc mùn bã hữu cơ, đặc biệt có thể dọn sạch những thức ăn thừa trong quá trình nuôi tôm. Do đó các nhà khoa học khuyến cáo bà con khi chọn cá rô phi thả vào ao nuôi tôm thì nên chọn cá đực, kích cỡ 50 – 100g/con, mật độ 15 con/1000m2 đối với tôm sú và 20 – 25 con/1000m2 đối với tôm thẻ. Về chi tiết kỹ thuật mô hình này, kỹ sư Phan Văn Hà – Trung tâm khuyến nông tỉnh Sóc Trăng khuyến cáo: “Cá rô phi có 4 loại: cá rô phi đen, cá giồng riếp, cá điêu hồng và cá phi vằn. Trong nuôi ghép bà con nên chọn cá rô phi đen đơn tính đực, do loại này chịu được độ mặn khá cao. Bà con có thể mua cá phi đơn tính về ương nuôi trong ao lắng, sau đó khi cá đạt khoảng 50 – 100g chúng ta lựa cá đực thả ghép vào ao tôm. Lợi ích: mang cá phi có tác dụng lọc nước rất tốt. Qua thực tế thời gian qua những ao tôm có nuôi ghép cá rô phi thì tình trạng tôm nhiễm bệnh giảm đáng kể”.
Với 53,5 ha diện tích ao nuôi, HTX bố trí ao lắng và ao nuôi cá rô phi khoảng 23,5 ha, còn 30 ha thả nuôi tôm. Thời vụ thả nuôi tôm vào tháng 4 và tháng 7, trong các ao lắng luôn có nguồn cá rô phi sẵn, còn thời điểm thả ghép cá rô phi vào ao tôm là sau khi xử lý nước để thả tôm hoặc khi tôm nuôi được 15 – 20 ngày tuổi. Riêng đối với ông Tăng Văn Súa – thành viên HTX Hòa Nghĩa thì việc thả cá trước khi thả tôm vào ao từ 7 – 10 ngày lại cho hiệu quả rất tốt. Ông Tăng văn Súa chia sẻ kinh nghiệm: “Thả cá trước khoảng 3 – 4 ngày để cá ăn chất dơ trong ao trước, khi kiểm tra thấy nước tốt thì tiến hành thả tôm”.
Ngoài ra theo bà con ở đây, nguồn nước lấy từ ao lắng cần được lọc qua túi vải một lần nữa để ngăn chặn trứng tép, trứng cá trước khi lấy vào ao nuôi tôm, nên lấy nước vào chiều mát hoặc sáng sớm. Nhờ việc nắm chắc kỹ thuật xử lý nước trong ao nuôi tôm, nên xã viên HTX Hòa Nghĩa hạn chế tối đa việc lấy nước từ bên ngoài, đảm bảo cho môi trường đất, nước trong ao nuôi tôm sạch mầm bệnh, độ kiềm, độ pH đạt chuẩn, giúp cho tôm có sức sống tốt và đạt năng suất cao.
Ngọc Khuê - Đài PT-TH Sóc Trăng, 14/01/2015
CÁ RÔ PHI GIÚP TÔM NHANH LỚN
Trong nghề nuôi tôm thương phẩm, một khi bệnh đốm trắng xuất hiện trong ao nuôi thì còn rất ít khả năng cứu vãn. Những năm qua, một số biện pháp quản lý sự bùng phát bệnh đốm trắng ở tôm nuôi đã được thử nghiệm ở Việt Nam và nhiều nước khác như Ấn Độ, Trung Quốc, Thái Lan... Gần đây, biện pháp nuôi luân canh được xem là chiến lược quản lý môi trường nuôi tốt hơn vì làm gián đoạn chu trình phát sinh bệnh, làm giảm thiểu những tác động của bệnh đối với nghề nuôi tôm.
Cá rô phi và tôm được coi là hai đối tượng dùng để kiểm tra tác dụng vệ sinh môi trường trong hệ nuôi luân canh tôm – cá. Tuy nhiên, khi bệnh đốm trắng xuất hiện thì ngay cả mô hình này cũng không mang lại hiệu quả, vì bệnh đốm trắng có khả năng lây lan theo phương thẳng đứng, tôm khỏe bị lây virus từ tôm mắc bệnh mà không qua bất cứ yếu tố trung gian nào. Vì thế, yêu cầu đặt ra là cần có một chiến lược đặc biệt để quản lý bệnh đốm trắng. Điều này phải dựa trên cơ sở hiểu biết, yếu tố phát sinh và điều kiện bùng nổi bệnh đốm trắng trong ao nuôi tôm. Các điều kiện và cơ chế nhiễm bệnh đốm trắng đối với tôm nuôi đến nay đã được hiểu rõ. Giai đoạn ủ bệnh ở tôm thường kéo dài trong 1 – 2 tháng, không có bất kỳ triệu chứng lâm sàng nào. Sự phát triển sang giai đoạn phát bệnh có thể xảy ra sau vài giờ trong điều kiện tôm nuôi bị sốc. Thời gian chuyển từ giai đoạn ủ bệnh sang giai đoạn phát bệnh ở tôm phụ thuộc vào một yếu tố, trong đó kích cỡ tôm và sự xuất hiện của các yếu tố gây strees là hai nhân tố rất quan trọng.
Có hai phương pháp đã được thử nghiệm nhằm loại trừ những con tôm bị yếu ra khỏi ao, nhưng có hiệu quả nhất là dùng mô hình các loài cá ăn động vật ở đáy để loại bỏ các con tôm bị bệnh khi chúng đã bị yếu. Khả năng cá rô phi ăn các con tôm yếu và chết do nhiễm bệnh đã làm giảm những thiệt hại do bệnh đốm trắng cũng như các bệnh khác gây ra, đồng thời còn làm cho tôm nhanh lớn hơn nữa. Mặt khác, còn có những tác động tích cực trong việc cải thiện chất lượng nước ao và đáy ao.
Hiện nay cá rô phi đang có giá cao trên thị trường xuất khẩu, nhất là cá rô phi đơn tính đực. Vì thế, nuôi cá rô phi kết hợp trong ao nuôi tôm sẽ là phương thức "lợi cả đôi đường" mà ở bất cứ nơi nào nuôi tôm cũng có thể áp dụng.
NNVN, 9/10/2003
.
ĐỂ CÓ NHỮNG VỤ TÔM NUÔI ỔN ĐỊNH, BỀN VỮNG…
Trước tiên, hãy xem xét các điều kiện hạ tầng phục vụ có bảo đảm cho việc nuôi tôm, nhất là khi muốn nuôi tôm công nghiệp (NTCN) như: nguồn nước, đường điện, giao thông thuỷ bộ, đồng vốn, kiến thức quản lý và khả năng nắm bắt thông tin về thị trường vật tư, tình hình dịch bệnh…
Tiếp theo là vấn đề kiến thiết đồng ruộng, sên vét lại ao đầm, đặc biệt là để phục vụ cho NTCN được thành công như bà con mong muốn. Nhưng đây là những công việc đòi hỏi có đồng vốn và rất cần sự quy hoạch ổn định, cần sự chỉ đạo nhất quán và chính sách đầu tư hỗ trợ từ phía Nhà nước. Và quan trọng hơn nữa là sự đồng thuận hưởng ứng thực hiện nghiêm chỉnh của nông dân.
Thu hoạch tôm ở ấp Sở Tại, xã Thạnh Phú, huyện Cái Nước. Ảnh: TRANG THĂM
Cần chú ý các vấn đề kỹ thuật trực tiếp trong mỗi vụ nuôi như chọn mùa vụ, chọn thời điểm thả giống sao cho né được bệnh mà lại bán được giá khi thu hoạch, điều lợi hay chịu thiệt hại đôi khi chỉ cách nhau đôi ba tuần nên càng phải thận trọng. Phải tuân thủ nuôi theo hệ thống quản lý chất lượng nào đó để bán được cho khách hàng, thị trường có yêu cầu. Và điều quan trọng hơn là dù nuôi hình thức nào cũng phải thiết kế ao đầm phù hợp, mà 2 yếu tố không thể thiếu là ao hay khu lắng phục vụ xử lý nước trước khi đưa vào ao nuôi tôm hay cấp bù khi cần và khu xử lý nước, bùn, chất thải sau mỗi vụ nuôi, hay khi vụ nuôi gặp sự cố.
Vấn đề chọn con giống tốt, thức ăn đạt chuẩn chất lượng, cách cho ăn đúng kỹ thuật và việc theo dõi chăm sóc, đối phó các vấn đề thay đổi môi trường ao nuôi phải tuân thủ quy trình chặt chẽ, đặc biệt là nuôi vụ nào ra vụ nấy, không nên thả giống nối vụ. Thận trọng trong sử dụng chế phẩm sinh học, thuốc phòng trị bệnh tôm, tránh hoá chất, kháng sinh cấm khi phải đối phó dịch bệnh, kể cả bệnh nguy cấp sao cho bảo đảm được thời gian cách ly tính đến thời điểm thu hoạch.
Còn vấn đề tuy đơn giản ít được người nuôi chú ý và hay bỏ qua là phải mạnh dạn cắt vụ, luân canh hay chuyển vụ hoặc xen canh có chọn lọc. Cụ thể là nuôi 1-2 vụ tôm thì ngưng cho ao đầm nghỉ ngơi bằng cách giữ ngọt hoá và thay đổi đối tượng nuôi trồng - chuyển hệ sinh thái từ mặn - lợ với tôm sú sang hệ sinh thái ngọt, ít nhất trong suốt 1 mùa mưa với cây, con hệ sinh thái ngọt. Hoặc giữ hệ sinh thái ngọt một thời gian nhất định 4-5 tháng trong mùa mưa để cắt giữa 2 vụ nuôi liên tiếp, nhằm cắt nguồn lây truyền bệnh và tạo điều kiện cho ao đầm phục hồi lại các yếu tố môi trường có lợi cho con tôm ở vụ tiếp theo, khôi phục lại hệ vi sinh vật có ích đã bị ức chế trong giai đoạn giữ mặn qua các vụ nuôi.
Cộng đồng cùng tham gia
Dù thực tiễn đã chứng tỏ cắt vụ, luân canh, xen canh có kết quả tốt, nhưng cần có những nghiên cứu bài bản, có cơ sở khoa học thuyết phục để khuyến cáo nông dân. Rồi cần có quy hoạch vùng cắt vụ, vùng xen canh và đối tượng nuôi xen, vùng luân canh với mùa vụ cụ thể cho đối tượng chính, phụ… để từ đó hỗ trợ cho công tác thực thi quy hoạch sản xuất, sử dụng đất và đảm bảo quy hoạch được tuân thủ không bị phá vỡ.
Theo đó, cần có bản đồ cắt vụ, xen canh, luân canh phù hợp với những đặc điểm bất lợi hay lợi thế của các địa phương, cho từng vùng nuôi, vụ nuôi cụ thể chứ không làm chung chung.
Ðể có thể thực hiện tốt và đạt được những lợi ích nêu trên, cần có cơ chế chính sách hỗ trợ cho vùng, người nuôi cắt vụ, như doanh nghiệp, nhà máy chế biến tham gia thực hiện thu mua sản phẩm cắt vụ xen canh, luân canh được trợ giá, miễn giảm thuế, được hỗ trợ lãi suất ngân hàng trong những tháng tồn trữ hàng hay nguyên liệu; có chính sách hỗ trợ công nhân trong trường hợp thiếu việc làm do khan hiếm nguyên liệu chế biến khi thực hiện cắt vụ, xen canh, luân canh. Người trực tiếp nuôi cũng cần được hỗ trợ con giống, thức ăn, hoá chất… một cách phù hợp nhưng phải được kiểm tra, xác nhận của cán bộ mạng lưới và chính quyền địa phương.
Thế Sự - Báo Cà Mau, 01/01/2015
(THỦY SẢN VIỆT NAM) – KHI NGÀNH THỦY SẢN CÓ TỐC ĐỘ TĂNG TRƯỞNG VƯỢT BẬC, ĐẶC BIỆT LÀ NGÀNH TÔM VỚI SỰ PHÁT TRIỂN “NÓNG” NHƯ THỜI GIAN QUA THÌ CÔNG TÁC CUNG CẤP NGUỒN GIỐNG CHẤT LƯỢNG ĐƯỢC ĐẶT LÊN HÀNG ĐẦU.
Vẫn lệ thuộc
Để đáp ứng nhu cầu nuôi tôm nước lợ, mỗi năm cả nước cần khoảng 130 tỷ con tôm giống; trong đó tôm sú 30 tỷ con, tôm thẻ chân trắng (TTCT) 100 tỷ con. Tuy số lượng sản xuất đủ nhưng mấu chốt đối với tôm nước lợ là nguồn tôm bố mẹ chưa chủ động được, nhất là TTCT bố mẹ 100% phải nhập khẩu, còn tôm sú bố mẹ khai thác tự nhiên vẫn chiếm 80%. Việc phụ thuộc vào khai thác tự nhiên cũng như nhập khẩu đều có những bất lợi, vì sẽ không chủ động được và nguồn cung hạn chế. Từ đầu năm đến nay, Việt Nam đã nhập 284.000 tôm bố mẹ từ Mỹ, Singapore, Indonesia, Thái Lan. Điều đáng lo ngại chính là chất lượng tôm nhập khẩu chưa thực đảm bảo, bởi có những nhà cung cấp chỉ cung cấp những sản phẩm không đảm bảo chất lượng. Với nguồn tôm bố mẹ từ tự nhiên thì tỷ lệ sạch bệnh rất thấp, dẫn đến nguy cơ tôm giống không sạch bệnh.
Hiện, cả nước có 583 cơ sở sản xuất tôm thẻ chân trắng giống – Ảnh: Nam Anh
Theo ông Lê Như Tuấn, Giám đốc Sở NN&PTNT Thanh Hóa, nhu cầu tôm giống của tỉnh này mỗi năm 500 – 600 triệu con; trong đó tôm sú 220 – 250 triệu con, TCTT 300 – 350 triệu con. Để đáp ứng được nhu cầu tôm giống, Bộ NN&PTNT cần quan tâm và tiếp tục hỗ trợ nâng cao năng lực nghiên cứu giống cho các Trung tâm cấp tỉnh, cả về thiết bị và nhân lực; Phát huy vai trò của hệ thống khuyến nông và hợp tác xã trong sản xuất giống; Liên kết các đơn vị khoa học chuyển giao khoa học công nghệ, quy trình sản xuất giống cho các đơn vị, địa phương…
Thu hút cộng đồng doanh nghiệp
Trong những năm qua, công tác nghiên cứu, sản xuất và thương mại giống từng bước được xã hội hóa và thể hiện rõ vai trò của doanh nghiệp. Các cơ sở sản xuất kinh doanh giống thời gian qua được thành lập theo quy định hiện hành, hoạt động bình đẳng, không phân biệt giữa doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân hay FDI.
Ông Đặng Quốc Tuấn, Phó tổng giám đốc Công ty CP Thủy sản Việt - Úc, đơn vị đi đầu nghiên cứu sản xuất tôm thẻ chân trắng bố mẹ tại Việt Nam cho biết, Việt - Úc đã mạnh dạn đầu tư, liên kết với Viện CSIRO (Australia) thực hiện chương trình “Phát triển tôm bố mẹ thẻ chân trắng tại Việt Nam” dựa trên công nghệ tiên tiến của CSIRO. Dự kiến, cuối năm nay, Chương trình sẽ kết thúc giai đoạn thử nghiệm, chờ được vào danh mục giống mới 2015. Với hy vọng thay đổi bản đồ tôm trên thế giới, ghi dấu ấn đặc biệt khi Việt Nam là một trong những nước có thể cung cấp tôm thẻ chân trắng bố mẹ, chủ động nguồn giống phục vụ sản xuất. Theo đó, Công ty mong muốn Nhà nước xây dựng cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp giải quyết các vấn đề phát sinh, tạo sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp trong cả nước.
Công tác sản xuất giống trong nước vẫn còn bấp cập khi quá trình chuyển giao giống mới vào sản xuất còn thiếu sự gắn kết giữa các viện nghiên cứu với các đơn vị sản xuất giống, nhất là doanh nghiệp. Trên thực tế, doanh nghiệp là cầu nối tiếp nhận giống mới từ các viện nghiên cứu để sản xuất giống thương phẩm cung cấp cho sản xuất đại trà, nhưng thời gian vừa qua liên kết này còn thiếu chặt chẽ. Vai trò của doanh nghiệp trong chuyển giao giống mới vào sản xuất chưa được phát huy, mặc dù, hiện nay doanh nghiệp là lực lượng chủ lực cung cấp giống cho sản xuất. Công tác quản lý nhà nước về giống còn nhiều bất cập.
Hướng tới giảm chi phí
Để chủ động hơn nữa việc cung ứng nguồn tôm giống chất lượng, sạch bệnh cho người nuôi, giảm việc nhập khẩu, thời gian tới cần tiếp tục nâng cao tiềm lực khoa học công nghệ về giống; Nâng cấp và hoàn thiện các cơ sở giống ở trung ương, địa phương theo hướng đồng bộ, hiệu quả; Tăng cường năng lực cho hệ thống quản lý, kiểm soát chất lượng giống ở tất cả các khâu, từ sản xuất đến lưu thông. Mặt khác, tiếp tục dành ngân sách Nhà nước, tín dụng ưu đãi, tín dụng thương mại đầu tư theo cơ cấu và cơ chế vốn, nhằm khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ gia đình… tham gia nghiên cứu, sản xuất và cung ứng giống.
Theo Bộ trưởng NN&PTNT Cao Đức Phát, các địa phương cần tạo điều kiện hỗ trợ thu hút doanh nghiệp đầu tư, nghiên cứu sản xuất giống; các doanh nghiệp cần chủ động phối hợp, liên kết với các nhà khoa học để triển khai áp dụng khoa học công nghệ trong sản xuất giống; có những đề xuất sửa đổi, ban hành cơ chế chính sách phù hợp thực tiễn, giúp doanh nghiệp có nhiều điều kiện tham gia ngày càng hiệu quả hơn.
ST